Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: Bài giảng tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma

Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: Bài giảng tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma
Bài giới thiệu và 22 bài giảng Tĩnh Tâm của Đức cố Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và Giáo Triều Roma.
I. Nhờ sức mạnh của Ơn Chúa

1. Gia phả Ðức Giêsu Kitô (Mt 1,1-17)

Ðứng trước Mầu Nhiệm Thiên Chúa

Tôi, Phanxicô, đầy tớ Ðức Giêsu Kitô, kẻ bé mọn nhất trong những người kế nhiệm các Tông Ðồ, trước mặt anh em tôi không nghĩ mình hiểu biết gì nhiều ngoại trừ Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đanh. Vâng lời Ðức Thánh Cha, và với phép lành của Ngài, tôi xin chào anh em rất thân mến với nụ hôn thánh thiện và mời anh em: nhân danh Chúa, chúng ta cùng nhau bắt đầu Tuần Tĩnh Tâm Năm 2000 với bài suy niệm dẫn nhập.

Gia phả Ðức Kitô

Thánh sử Tin Mừng Marco mở đầu chứng từ về Ðức Giêsu Con Thiên Chúa với những lời sau đây: "Gia phả Ðức Giêsu Kitô, Con Vua Ðavít, Con của Abraham..." (Mt 1,1).

Chọn gia phả này làm đề tài cho bài suy niệm dẫn nhập chắc gây nhiều ngạc nhiên.

Khi đọc đoạn Tin Mừng này trong phụng vụ, nhiều khi chúng ta cảm thấy hơi khó chịu. Có người trong chúng ta coi việc đọc một đoạn văn như vậy thật vô nghĩa, cứ lập đi lập lại cách nhàm chán. Có kẻ đọc vội vã, khiến cho các tín hữu chẳng hiểu gì; lại có người cắt ngắn, bỏ đi một số đoạn.

Ðối với chúng tôi, những người Á châu, đặc biệt là đối với tôi là một người Việt Nam, việc tưởng nhớ các tiền nhân có một giá trị lớn lao. Theo văn hóa Việt Nam, trong niềm hiếu kính, chúng tôi vẫn giữ một cuốn gia phả của gia tộc trên bàn thờ trong gia đình. Chính tôi cũng biết đọc tên của 15 thế hệ các tổ tiên của tôi, từ năm 1698, khi gia tộc tôi được lãnh nhận Phép Thánh Tẩy. Qua gia phả, chúng ta thấy rằng mình thuộc về một lịch sử rộng lớn hơn. Và chúng ta ý thức rõ hơn ý nghĩa lịch sử của mình.

Vì thế, tôi cảm tạ Mẹ Giáo Hội thánh thiện, ít là hai lần trong năm, vào mùa Vọng và trong lễ Sinh Nhật Ðức Mẹ, cho đọc lại trong các cộng đoàn rải rác khắp nơi trong thế giới Công giáo, danh xưng của bao nhiêu nhân vật ý nghĩa, theo ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa, đã giữ một vai trò quan trọng trong lịch sử cứu dộ và trong thực tại của dân Israel.

Tôi xác tín rằng những lời trong "Sách gia phả Chúa Giêsu Kitô" chứa đựng lời loan báo chủ yếu về Cựu Ước và Tân Ước, cốt yếu của mầu nhiệm cứu độ liên kết tất cả chúng ta với nhau, các tín hữu Công giáo, Chính thống và Tin lành.

Trong bối cảnh Năm Thánh Nhập Thể, qua đó Hội Thánh hát lên niềm vui mừng Hy Vọng nơi Ðức Kitô, Ðấng Cứu Thế duy nhất của chúng ta, đoạn Kinh Thánh này mở ra cho chúng ta thấy mầu nhiệm lịch sử là mầu nhiệm về lòng thương xót. Ðoạn Kinh Thánh này nhắc nhở cho chúng ta điều Ðức Trinh Nữ Maria hát lên trong kinh Magnificat, bài ca mà Giáo Hội hằng ngày vẫn tiếp nhận là của mình trong Kinh Chiều: ý định nhân lành và trung tín của Thiên Chúa được hoàn thành theo lời hứa "với Abraham và dòng dõi ông đến muôn đời" (Lc 1,55). Thực vậy, lòng nhân từ của Chúa đang và sẽ trải dài từ đời này sang đời khác, "vì lòng thương xót của Ngài tồn tại muôn đời" (cf Tv 100,5; 136).

Mầu nhiệm của tiếng Chúa gọi

Sách gia phả Ðức Giêsu Kitô có ba phần. Phần I kể tên các tổ phụ, phần II nói đến các vua trước cuộc lưu đày Babilon, và phần III kể tên các vua sau cuộc lưu đày.

Ðiều gây chú ý đầu tiên khi đọc văn bản này là mầu nhiệm của tiếng Chúa gọi. Sự chọn lựa của Thiên Chúa có tính cách nhưng không và đầy tình thương, không thể hiểu được theo những lý luận của lý trí, và nhiều khi còn là điều gây gương mù nữa.

Chẳng hạn, trong sách gia phả Ðức Giêsu Kitô, chúng ta thấy Abraham thay vì chọn trưởng tử Ismael, con của bà Aggar, thì lại chọn Isaac, con của lời hứa, con của bà Sara, vợ của ông.

Rồi đến lượt Isaac muốn chúc lành cho trưởng nam Esau, nhưng rốt cuộc đành chúc lành cho Giacóp, theo một ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa.

Giacóp cũng không trực tiếp thông truyền sự nối giòng dẫn tới Ðấng Messia. Ông đã không chọn Ruben, con trưởng hoặc chọn Giuse, người được ông yêu thương nhất, người giỏi giang hơn tất cả các anh em, người đã tha thứ cho anh em mình và cứu họ thoát khỏi nạn đói lớn khắp vùng. Nhưng chọn Giuđa, người con thứ tư, người đã cùng với các anh em khác chịu trách nhiệm về việc bán Giuse cho các lái buôn đưa sang Ai Cập.

Mầu nhiệm cao cả về việc Thiên Chúa chọn lựa tiền nhân của Ðấng Messia bắt đầu làm cho chúng ta chú ý.

Trang Tin Mừng này soi sáng mầu nhiệm ơn gọi của chúng ta.

"Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con" (Ga 15,16). Chúng ta không được chọn vì công trạng của mình, nhưng chỉ vì lòng nhân từ của Chúa. Chúa nói: "Ta đã yêu thương con bằng tình yêu đời đời" (Gr 31,3). Ðó là điều làm cho chúng ta an tâm. "Từ lòng mẹ, Chúa đã gọi tôi" (Is 49,1). Như thế, điều làm cho chúng ta hãnh diện, đó là ý thức mình được gọi và được chọn vì tình thương.

Những ngày tĩnh tâm này là thời gian thuận tiện để hát lên lòng biết ơn vô biên của chúng ta đối với Chúa, vì "lòng thương xót của Ngài tồn tại muôn đời". Và chúng ta phải làm điều đó từ tận đáy tâm hồn mình, với lòng khiêm tốn sâu xa và biết ơn. "Chúa đã nâng kẻ mọn hèn từ nơi cát bụi, từ đống phân tro Ngài nâng kẻ nghèo túng, để đặt họ ngồi giữa hàng quyền quí, hàng quyền quí dân Ngài" (Tv 113,7-8).

Mầu nhiệm của tội lỗi và ân sủng

Nếu chúng ta xét tên của các Vua ở trong sách gia phả Chúa Giêsu, chúng ta có thể nhận thấy rằng chỉ có hai vị là trung thành với Thiên Chúa, đó là Ê-dê-ki-en và Giê-rô-bô-am. Những vua khác đều là những kẻ thờ thần tượng, vô luân hay sát nhân...

Cả trong thời kỳ sau cuộc lưu đày, trong số các vua được kể tên, chúng ta chỉ thấy có hai người còn trung thành với Chúa đó là Sa-la-ti-en và Zô-rô-ba-ben. Những vua khác đều là những kẻ tội lỗi hoặc không được biết đến.

Nơi Ða-vít, người nổi danh nhất trong các vua đã sinh ra Ðấng Messia, sự thánh thiện và tội lỗi xen lẫn nhau: với nước mắt cay đắng, Ngài xưng thú trong Thánh Vịnh các tội ngoại tình và sát nhân, nhất là trong Thánh Vịnh 50, một ca vịnh trở thành kinh nguyện thống hối thường được dùng trong phụng vụ của Giáo Hội.

Cả những phụ nữ mà Mát-thêu nêu tên trong đầu sách Tin Mừng của Ngài như những người mẹ thông truyền sự sống, từ cung lòng phúc lành của Thiên Chúa, cũng gợi lên nơi chúng ta một sự xúc động. Tất cả họ đều là những phụ nữ ở trong những hoàn cảnh bất hợp lệ: Ta-ma là một phụ nữ tội lỗi, Ra-káp là môt gái mãi dâm, Rút là một người ngoại bang; và về người phụ nữ thứ tư, người ta không dám nêu danh, và chỉ nói "đó là vợ của ông U-ri-a". Người đàn bà dó chính là bà Bét-sa-bê-a mà vua Ða-vít đã ngoại tình.

Tuy nhiên, dòng lịch sử tràn đầy lỗi lầm và tội ác như thế đã trở thành một nguồn nước trong khi càng đến gần thời gian sung mãn: đến Ðức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và đến Chúa Giêsu, Ðấng Messia. Nơi các Ngài tất cả các thế hệ được cứu chuộc.

Danh sách những người tội lỗi mà Mát-thêu nêu rõ trong gia phả của Chúa Giêsu không được gây gương mù cho chúng ta. Trái lại gia phả ấy tuyên dương mầu nhiệm thương xót của Thiên Chúa. Cả trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã chọn Phê-rô, người đã chối Ngài, và chọn Phao-lô, người đã bách hại Giáo Hội. Vậy mà các vị lại trở nên những cột trụ của Hội Thánh. Trong thế gian này, khi một dân tộc viết lịch sử chính thức của mình, họ thường nói về những chiến thắng đã đạt được, những vị anh hùng, hoặc sự cao cả của mình... Quả là một trường hợp duy nhất, thật đáng ngưỡng mộ và tuyệt vời, khi thấy một dân tộc không hề dấu diếm những tội lỗi của tiền nhân trong lịch sử chính thức của mình.

Mầu nhiệm của Hy Vọng

Toàn thể Cựu Ước hướng về Hy Vọng:
Chúa đến để thiết lập Nước của Ngài,
Chúa đến để tái lập Giao Ước,
Chúa đến để lập một dân mới,
để xây dựng một Giêrusalem mới,
để kiến thiết một đền thờ mới,
Chúa đến để tái tạo thế giới.

Với biến cố Nhập Thể, Nước ấy đã tới, thời gian viên mãn đã tới. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Nước ấy đang tăng trưởng từ từ, âm thầm, như một hạt cải... Giữa sự viên mãn của thời gian và tận thế, Hội Thánh đang hành trình như một Dân Tộc Hy Vọng.

Văn hào Charles Péguy đã nói: "Ðức tin làm cho tôi hài lòng hơn cả là niềm Hy Vọng" (Le porche du mystière de la deuxième vertu, Abbeville 1954. 81è édition, p.15). Ðúng vậy, vì trong Hy Vọng, đức tin vốn hoạt động nhờ đức ái, mở ra những con đường mới trong tâm hồn con người nhằm hướng đến việc thực hiện một thế giới mới, một nền văn minh tình thương. Ðức tin đó mang đến cho thế giới sự sống thần linh của Chúa Ba Ngôi, lối sống và hoạt động của Thiên Chúa, như được biểu lộ trong Ðức Kitô và được truyền lại trong Tin Mừng.

Thưa anh em, đó chính là ơn gọi cao cả của chúng ta. Không do công trạng của chúng ta, nhưng "vì lòng thương xót của Chúa tồn tại đến muôn đời". Ngày nay, cũng như trong thời Cựu Ước và Tân Ước, lòng nhân từ Chúa vẫn linh hoạt nơi những người có tinh thần thanh bần, nơi những người khiêm hạ, những người tội lỗi thành tâm trở về cùng Chúa.

Cùng nhau bước qua ngưỡng cửa Hy Vọng

Tôi đã chọn đề tài Tuần Tĩnh Tâm Năm Thánh này, tựa đề tổng quát là "Chứng Nhân Hy Vọng". Hy Vọng có lẽ là thách đố lớn nhất ngày nay, trước ngưỡng cửa Ngàn Năm Mới. Một tiểu sử mới đây của Ðức Thánh Cha mang tựa đề "Witness to Hope" - Chứng Nhân Hy Vọng. Giờ đây, tôi không thể không cám ơn Ðức Thánh Cha, vì đã hướng dẫn Hội Thánh bằng chứng tá rạng ngời của Ngài để bước qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng. Cùng với những anh em thuộc các Giáo Hội và Cộng đồng tôn giáo khác bước qua Cửa Thánh, ngưỡng cửa tương lai, Ngài đã chỉ cho chúng ta thấy rằng toàn thể nhân loại tiếp tục cuộc hành trình gặp gỡ Chúa Giêsu là Hy Vọng độc nhất.

Hôm nay, tôi trình diện như một cựu tù nhân đáng thương, đã trãi qua hơn 13 năm trong tù, trong đó có 9 năm biệt giam.

Tôi cũng cảm thấy run sợ trước nhiệm vụ mà Ðức Thánh Cha đã ủy thác cho tôi. Nhưng một sách chuyện của Mỹ làm cho tôi an tâm. Sách ấy kể lại chuyện một nhà giảng thuyết danh tiếng thu hút đông đảo dân chúng. Trước tòa giảng, có một cụ già luôn chăm chỉ theo dõi tất cả các bài giảng của ông. Nhà giảng thuyết rất vui sướng vì thành công của mình. Một hôm, thiên thần hiện ra và nói: "Tôi chúc mừng ông vì những bài giảng của ông... ông thật là tài giỏi! Nhưng ông có nhớ cụ già luôn đến nghe ông không?" "Có chứ", - nhà giảng thuyết đáp. Thiên thần tiếp: "Vậy thì ông hãy biết rằng cụ già ấy đến không phải để nghe ông đâu, nhưng là để cầu nguyện cho ông. Chính nhờ lời cầu nguyện của cụ mà những bài giảng của ông mang lại nhiều ích lợi cho các tín hữu".

Như vậy, tôi xin nói với anh em: tôi hết lòng trông cậy nơi lời cầu nguyện của anh em.

Và với tâm tình này, chúng ta hãy phó thác cho Mẹ Maria, Mẹ Ðấng Cứu Thế, đang ngự trên ngai trong nhà nguyện này, giữa các Thánh của Ðông và Tây phương. Chúng ta cảm thấy gần Mẹ như trong dịp Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, như chính con tim của Giáo Hội, như Mẹ của các Mục Tử và các tín hữu, như Mẹ của Hội Thánh.
Xin Mẹ chúc lành cho chúng con.

II. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa:

2. Simon, con bảo Thầy là ai? (cf Mt 16,15)

Chúa Giêsu Cứu Thế, niềm Hy Vọng độc nhất

Ngày 15 tháng 8 năm 1975, lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, tôi được mời đến Phủ Tổng Thống, "Dinh Ðộc Lập", vào lúc 14 giờ. Tại đó, tôi bị bắt và đem đi trên một xe hơi có hai công an đi kèm. Và đó là khởi đầu cuộc phiêu lưu của tôi.

Trong lúc ấy, tất cả các linh mục, tu sĩ nam nữ bị gọi tới Nhà Hát, với mục đích tránh mọi phản ứng của dân chúng đối với vụ bắt tôi.

Trong cuộc hành trình, tôi bắt đầu ý thức rằng mình đang mất tất cả. Tôi ra đi, với chiếc áo chùng thâm, trong túi có một cỗ tràng hạt. Tôi chỉ còn biết phó thác cho Chúa Quan Phòng. Nhưng giữa bao nhiêu lo âu ấy, tôi vẫn thấy có một niềm vui lớn: "Hôm nay là lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời..."

Từ lúc đó, người ta cấm gọi tôi là "Ðức Cha, Cha...". Tôi là ông Nguyễn Văn Thuận. Tôi không được phép mang dấu hiệu gì về chức vị của tôi. Không hề báo trước chút nào, Chúa yêu cầu tôi hãy trở về với điều cốt yếu.

Trên đường dài 450 cây số, không có một ai. Tôi thực sự bị bỏ rơi.

Và trong sự xúc động trước hoàn cảnh mới, diện đối diện với Chúa, tôi nghe thấy câu Chúa Giêsu hỏi Simon: Simon, con bảo Thầy là ai? (cf Mt 16,15).

Các bạn đồng tù với tôi, những người không Công giáo, muốn hỏi "lý do tại sao tôi Hy Vọng". Với tình bằng hữu và thiện ý, họ hỏi tôi: "Tại sao ông đã bỏ mọi sự: gia đình, quyền thế, giàu sang, để theo Chúa Giêsu? Chắc là phải có một cái gì rất đặc biệt!" Những người cai tù cũng ngạc nhiên hỏi tôi: "Có Thiên Chúa thực hay không? Có Chúa Giêsu không? Hay đó chỉ là những điều mê tín mà thôi? Những điều do giai cấp thống trị bịa ra?"

Vì thế cần phải đưa ra những giải thích dễ hiểu, không phải bằng những từ ngữ kinh viện, nhưng với những lời lẽ đơn sơ của Tin Mừng.

Những khuyết điểm của Chúa Giêsu

Một hôm, tôi quyết định đưa ra những giải thích đặc biệt. Và điều tôi nói đây đúng ra là phản ảnh mục vụ nhà tù. Tôi xin anh em đại xá cho nếu tôi có phạm tội rối đạo nào trước mặt Giáo Triều: "Tôi đã bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, vì tôi yêu thích những khuyết điểm của Ngài".

Khuyết điểm thứ nhất: Chúa Giêsu không có trí nhớ tốt (cf Lc 23,42-43)

Trên Thập Giá, trong lúc hấp hối, Chúa Giêsu nghe tên trộm bên phải nói: "Thưa ông Giêsu, xin hãy nhớ đến tôi, khi ông vào nước của ông" (Lc 23,42). Giả sử đó là tôi, thì có lẽ tôi đã trả lời: "Tôi sẽ không quên anh, nhưng anh phải đền bù các tội ác của mình ít là khoảng 20 năm trong luyện ngục". Trái lại, Chúa Giêsu trả lời anh ta: "Ngày hôm nay, ngươi sẽ được ở cùng Ta trên Thiên đàng" (Lc 23,43). Ngài đã quên tất cả tội lỗi của người ấy.

Ðiều tương tự cũng xảy ra với người đàn bà tội lỗi đã xức thuốc thơm cho chân Chúa. Chúa Giêsu chẳng hỏi gì về quá khứ xấu xa của bà nhưng chỉ nói: "... tội của con tuy nhiều, nhưng đều được tha hết vì con đã yêu mến nhiều" (Lc 7,47).

Dụ ngôn người con trai hoang đàng kể lại cho chúng ta: trên đường trở về nhà cha, anh ta đã chuẩn bị sẵn trong lòng điều sẽ nói: "Thưa cha, con đã phạm tội đối với Trời và với cha; con không còn đáng được gọi là con cha nữa. Xin hãy đối xử với con như những đầy tớ của cha" (Lc 15,8-9). Nhưng khi người cha thấy người con ấy từ đàng xa, liền quên hết mọi sự và chạy ra đón con, ôm hôn con và không để anh ta rụt rè nói lên bài diễn văn đã dọn sẵn. Người cha gọi những đầy tớ đang kinh ngạc và nói: "Hãy mang quần áo đẹp nhất ra đây và mặc cho anh, hãy xỏ nhẫn vào tay và xỏ giầy cho anh. Hãy mang bê béo để làm thịt, và chúng ta hãy mở tiệc, vì con ta đã chết nay được sống lại..." (Lc 15,22-24).

Chúa Giêsu không có một trí nhớ như trí nhớ của tôi. Không những Ngài tha thứ và tha thứ cho mỗi người, nhưng Ngài còn quên là Ngài đã tha thứ.

Khuyết điểm thứ hai: Chúa Giêsu không biết toán học

Giả sử Chúa Giêsu đi thi toán, chắc Ngài sẽ bị đánh rớt. Dụ ngôn người Mục Tử Nhân Lành chứng tỏ điều đó. Một người mục tử có 100 con chiên. Một con chiên bị lạc, và không chần chờ gì, ông ta đi tìm con chiên ấy, bỏ 99 con chiên khác nơi hoang địa. Khi tìm được chiên lạc, ông vác chiên lên vai (cf Lc 15,4-7).

Ðối với Chúa Giêsu, 1 có giá trị bằng 99... và có lẽ còn hơn thế nữa! Có ai chấp nhận được điều đó không? Nhưng lòng thương xót của Ngài trải rộng từ đời này sang đời khác...

Khi phải cứu một con chiên lạc, Chúa Giêsu không nản chí vì bất kỳ rủi ro, mệt nhọc hoặc hiểm nguy nào... Chúng ta hãy chiêm ngắm thái độ nhân từ thương xót của Chúa khi Ngài ngồi bên bờ giếng Gia-cóp để tìm người phụ nữ xứ Sa-ma-ri-a, hoặc khi Ngài muốn dừng lại tại nhà ông Gia-kêu! Thật là đơn sơ... thật là thương yêu dường nào đối với kẻ tội lỗi!

Khuyết điểm thứ ba: Chúa Giêsu không biết luận lý học

Một người đàn bà có 10 đồng bạc. Bà bị mất một đồng, liền đốt đèn lên để tìm kiếm. Khi tìm thấy, bà gọi những bà láng giềng đến và nói với họ: "Các bà hãy vui mừng với tôi, vì tôi tìm được đồng bạc bị mất" (cf Lc 15,8-10).

Thật không hợp lý tí nào khi làm phiền các bà bạn chỉ vì một đồng bạc như vậy! Cũng chẳng hợp lý chút nào cả khi mở tiệc giữa đêm khuya để ăn mừng vì tìm lại được đồng bạc đánh mất. Và cuối cùng lại càng không hợp lý khi mời bạn bè đến ăn tiệc, tốn phí còn nhiều hơn đồng bạc tìm thấy. Cho dù có tiêu cả 10 đồng cũng không đủ cho phí tổn...

Ở đây, chúng ta có thể nói như Pascal: "Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không biết được" (B. Pascal, Pensées n.477, in: Oeuvres complètes [ed. J. Chevalier], Paris 1954).

Khi kết luận dụ ngôn, Chúa Giêsu đã tỏ lộ lý luận lạ lùng của tâm hồn Ngài: "Thực, Thầy bảo các con, các thiên thần của Chúa vui mừng chỉ vì một tội nhân hoán cải" (Lc 15,10).

Khuyết điểm thứ tư: Chúa Giêsu là một người phiêu lưu

Ai quảng cáo cho một công ty hoặc ra ứng cử thường chuẩn bị một chương trình rất chính xác, với nhiều lời hứa hẹn. Nhưng đối với Chúa Giêsu lại không như vậy. Lối tuyên truyền của Ngài, dưới mắt người đời, thế nào cũng bị thất bại. Thực vậy, Ngài hứa cho những kẻ theo Ngài nhiều lần bị xét xử và bị bách hại.

Với các Tông Ðồ đi theo, Ngài không bảo đảm cho họ nơi ăn chốn ở, nhưng chỉ cho họ chia sẻ cùng một cách sống của Ngài.

Một người ký lục muốn gia nhập đoàn môn đệ, Chúa Giêsu trả lời: "Con cáo có hang, con chim có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu" (Mt 8,20).

Ðoạn Tin Mừng về các Mối Phúc Thật, một "bức chân dung tự họa" của Chúa Giêsu như một người phiêu lưu vì tình yêu đối với Chúa Cha và anh em. Từ đầu chí cuối của các Mối Phúc Thật này đều nghịch lý, cho dù chúng ta đã nghe quen: "Phúc cho người có tinh thần thanh bần.... phúc cho người sầu khổ..., phúc cho người bị bách hại vì sự công chính..., phúc cho các con khi người ta lăng mạ, bách hại, và nói mọi điều xấu chống lại các con vì Thầy. Các con hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng các con thật lớn lao trên trời" (Mt 5,3-12).

Nhưng các môn đệ đã tín thác nơi người phiêu lưu ấy. Từ 2,000 năm nay, và cho đến tận thế, chúng ta vẫn thấy không thiếu hàng ngũ những người phiêu lưu đã và sẽ tiếp tục theo Chúa Giêsu. Chỉ cần xem các Thánh qua mọi thời đại. Rất nhiều người trong số họ thuộc hiệp hội những người phiêu lưu ấy. Không có địa chỉ, chẳng có điện thoại hay điện thư...!

Khuyết điểm thứ năm: Chúa Giêsu không biết tài chánh và kinh tế

Chúng ta hãy nhớ lời dụ ngôn những người thợ làm vườn nho: "Nước Trời giống như một chủ nhà từ sáng sớm ra ngoài mướn người làm vườn nho cho ông. Rồi vào lúc 9 giờ, giữa trưa, 3 giờ chiều, và cả lúc 5 giờ ông tiếp tục mướn người về làm...". Chiều đến, ông bắt đầu trả lương cho những người đến làm trễ nhất, rồi lần lượt tới những người làm từ sáng sớm, tất cả mỗi người đều được ông trả một đồng (cf Mt 20,1-16).

Giả sử Chúa Giêsu được đặt làm quản lý cộng đoàn hoặc giám đốc một xí nghiệp, tổ chức ấy chắc sớm bị phá sản. Làm sao lại trả cùng một đồng lương cho những người làm từ sáng sớm cũng như những người chỉ bắt đầu làm từ ban chiều! Phải chăng Chúa Giêsu đã sai lầm? Ðã tính sai kết toán? Thật ra, không phải thế! Ngài cố tình làm như vậy, như Ngài giải thích: "Tôi không có quyền xử dụng của cải của tôi theo ý tôi sao? Hay là bạn ghen tương vì tôi tốt lành".

Chúng tôi đã tin vào tình yêu Thiên Chúa

Nhưng chúng ta tự hỏi: tại sao Chúa Giêsu có những khuyết điểm như thế?

Vì Ngài là Tình Yêu (Cf 1Ga 4,16). Tình yêu đích thực không lý luận, không đo lường, không dựng lên những hàng rào, không tính toán, không nhớ đến những xúc phạm và không đặt điều kiện. Nói theo kiểu thời nay: tình yêu không cân, đo, đong, đếm.

Chúa Giêsu luôn hành động vì yêu thương. Từ tổ ấm của Chúa Ba Ngôi, Ngài mang cho chúng ta một tình yêu lớn lao, vô biên và thần linh. Và như các Thánh Giáo Phụ diễn đạt, đó là một tình yêu điên rồ, làm đảo lộn những mẫu mực tính toán của con người.

Khi suy tư về dụ ngôn này, tâm hồn tôi đầy tràn hạnh phúc và an bình. Tôi Hy Vọng rằng vào cuối đời, Chúa cũng sẽ đón nhận tôi như người bé nhất trong số những người làm việc trong vườn nho của Ngài. Và tôi sẽ ca tụng lòng nhân từ của Chúa đến muôn đời, sẽ kinh ngạc vì những điều lạ lùng Chúa dành cho những người Ngài tuyển chọn. Tôi sẽ vui mừng được thấy Chúa Giêsu với những "khuyết điểm" của Ngài, những khuyết điểm - tạ ơn Chúa - không thể sửa chữa nổi, những khuyết điểm bất trị.

Các Thánh là những người chuyên môn về tình yêu vô biên ấy. Trong đời, tôi thường cầu xin Nữ Tu Faustina Kowalska giúp tôi hiểu lòng nhân từ của Chúa. Và khi viếng thăm Paray-le-Monial, tôi cảm động vì những lời Chúa Giêsu nói với Thánh nữ Margarita Maria Alacoque: "Nếu con tin, con sẽ thấy quyền năng của Trái Tim Cha".

Chúng ta hãy chiêm ngưỡng mầu nhiệm tình yêu ấy.

Ngài đã sáng tạo vạn vật cách kỳ diệu

Thiên Chúa đã sáng tạo người nam và người nữ theo hình ảnh Ngài. Ngài tạo nên họ chỉ kém thiên thần một chút (Tv 8,6; Dt 2,27). Ngài đã ban ơn bất tử, chân lý, công lý... Công Ðồng Vatican II dạy: "Lý lẽ cao cả nhất của con người hệ tại điều này là con người được kêu gọi hiệp thông với Thiên Chúa. Ngay từ thuở mới sinh, con người được mời gọi đối thoại với Thiên Chúa. Thật vậy, con người chỉ hiện hữu vì được sáng tạo do tình yêu của Thiên Chúa, và luôn được Ngài bảo tồn vì tình yêu thương. Con người sẽ không sống trọn vẹn theo sự thật nếu không tự nhìn nhận điều đó và không biết tín thác nơi Ðấng Tạo Thành của mình" (GS 19).

Nhưng trong tự do, con người có thể từ chối "sự cao cả" do Thiên Chúa ban cho. Con người có thể toan tính hành động theo ý định riêng của mình khác với tương lai Chúa hứa. Thật vậy, con người cố tìm cách bảo đảm cho mình một tương lai riêng như Kinh Thánh đã nói về các dân ngoại: họ tìm kiếm giàu sang, trông cậy nơi loài người, liên minh với những quyền lực ngoại bang, thủ đắc những của thánh (Hs 2,10; Ed 16,15ss). Và thế là họ rơi vào tình trạng lầm than. Họ không còn Hy Vọng nơi Thiên Chúa nữa, nhưng theo đuổi những Hy Vọng giả trá.

Lại còn chỉnh đốn mọi sự cách nhiệm lạ hơn

Qua các Ngôn Sứ, Thiên Chúa không ngừng mời gọi con người tới niềm Hy Vọng đích thực là Chúa Giêsu, Ðấng Cứu Thế duy nhất. Trong Chúa Giêsu, chúng ta được ánh sáng chân lý tha thứ tội lỗi, được tự do tái tạo trước quyền lực sự dữ. Trong Ngài, chúng ta còn được một khả năng mới để yêu thương, được tham gia vào bản tính Thiên Chúa, được chiến thắng trên sự chết nhờ sự phục sinh của thân xác, và được sự sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu đến gặp gỡ thân phận lầm than của con người. và khi cứu thoát chúng ta, Chúa Giêsu đã biến Tin Mừng và ơn thánh của Ngài thành nguyên lý đổi mới thế giới và nhất là canh tân con người trong mọi lãnh vực của cuộc sống: công và tư, văn hóa và xã hội, chính trị và kinh tế. Thiết lập mọi sự trong Chúa Kitô.

Ngây ngất trước Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là tất cả mọi sự của tôi (Deus meus et omnia), tôi cùng với Chúa Giêsu trở thành nguồn Hy Vọng trong vườn thế giới, như thi hào Charles Péguy người Pháp đã nói:

"Ta tự hỏi: nhưng làm sao nguồn suối Hy Vọng ấy có thể mãi trẻ trung, tươi mát, sinh động... Thiên Chúa phán: hỡi dân tốt lành, điều ấy không khó lắm đâu... Nếu Nguồn Hy Vọng ấy muốn dùng nước trong để làm nên những nguồn mạch tinh khiết, thì sẽ chẳng bao giờ tìm cho đủ nước trong toàn thề các tạo vật của ta. Nhưng từ những dòng nước đục ngầu mà Nguồn Hy Vọng ấy dùng để biến thành những nguồn nước trong. Và chính vì thế mà chẳng bao giờ thiếu nước, nhưng cũng vì vậy mà nguồn ấy là Hy Vọng... và đó chính là bí quyết đẹp nhất trong vườn thế gới". (Cf Le porche du mystère de la deuxième vertu, cit., pp.186-189).

Kính chào Mẹ từ nhân
Mẹ Thiên Chúa và Mẹ tha thứ,
Mẹ Hy Vọng và Mẹ ơn phúc
Mẹ đầy hoan lạc thánh thiện.
Lạy Mẹ Maria!

3. HÃY TƯỜNG TRÌNH VỀ VIỆC QUẢN LÝ NÔNG TRẠI

Một tổng kết vào đầu thế kỷ 21

Theo một truyền thống cổ tại Á châu, tại triều đình, năm này qua năm kia, người ta viết lịch sử vương quốc. Nhiệm vụ này được ủy thác cho hai vị quan cấp cao của hoàng đế. Một vị phải ghi những điều tốt lành xảy ra trong vương quốc và vị kia lại lập danh sách những gì tiêu cực xảy ra. Nhưng không vị nào biết người kia viết gì.

Trong một buổi triều yết đặc biệt và công khai vào đầu năm mới, trước hoàng đế và toàn thể bá quan văn võ, hai vị quan phải đọc bản tổng kết. Tất cả mọi người đều chờ đợi, mong được biết sự thật do sự đối chiếu giữa hai bản phúc trình.

Sau khi nghe cả hai, hoàng đế hướng về toàn thể bá quan và hỏi: "Ai trong các khanh có điều gì muốn nói, thì cứ tự nhiên". Ðây là một ngày mà hoàng đế mời tất cả mọi người tự do phát biểu ý kiến. Nhưng không ai dám nói. Im lặng tuyệt đối bao trùm triều đình. Bất thình lình người ta nghe thấy có tiếng rên khóc. Hoàng đế hỏi: "Ai khóc vậy? Hãy tiến ra trước mặt Trẫm mà giải thích". Một vị quan bước ra, bái ba lạy trước mặt hoàng đế và với tất cả lòng kính cẩn, ông nói: "Tâu Bệ Hạ, không có ai trong triều đình này dám nói sự thật. Thần sợ rằng đất nước chúng ta lâm nguy và có nguy cơ sụp đổ. Vì thế mà thần khóc".

Chúng ta được mời gọi trở thành những người tìm kiếm và trở nên chứng nhân cho sự thật trong Hy Vọng, trước mặt Chúa và trước mặt thế giới để mưu ích cho Hội Thánh. Ðức Thánh Cha, hôm Chúa nhật I mùa chay của Năm Toàn Xá, đã nêu một chứng tá đặc biệt và một tấm gương sáng cho toàn thế giới, khi xin Thiên Chúa tha thứ vì những lỗi lầm và thiếu sót của con cái Hội Thánh qua dòng lịch sử, và đồng thời cũng tha thứ cho tha nhân. Ngài khích lệ chúng ta đón nhận lời mời gọi này.

Thiên Chúa mời gọi hoán cải

Sở dĩ tôi dám đưa ra một lời mời gọi hoán cải là vì chính Chúa đã yêu cầu chúng ta điều đó. Giống như Ngài đã nói với những người quản lý tài sản của Ngài, Ngài có thể lập lại cho chúng ta lời Tin Mừng: "Ngươi hãy tường trình về việc quản lý của ngươi" (Lc 16,2).

Ðó là sự hoán cải từ một tình trạng tiêu cực hoặc tầm thường tới việc thực thi Tin Mừng một cách chân chính. Ðó là quyết tâm từ bỏ những Hy Vọng giả trá để đặt trọn niềm Hy Vọng của chúng ta nơi Chúa Kitô, như những người đóng góp vào sứ vụ của Thánh Phêrô.

Cuộc hoán cải ấy mới được Ðức Thánh Cha nhấn mạnh nhân dịp Ngày Năm Thánh dành cho Giáo Triều và rất phù hợp với tinh thần Năm Thánh. Ðây là một cuộc hành trình hướng về Thiên Chúa, hướng về ánh sáng soi chiếu và chiến thắng tội lỗi.

Chúng ta không nên kinh hoàng vì sự yếu đuối của mình. Cả Thánh Phêrô cũng là người yếu đuối. Chính việc ý thức tính chất mỏng giòn ấy giúp gìn giữ chúng ta thành những môn đệ chân chính của Chúa Kitô, và để chúng ta có thể canh tân liên lỷ giữa lòng Giáo Hội.

Lời chân lý

Giờ đây chúng ta hãy nghĩ tới những công ty kinh doanh trong thế giới ngày nay. Bắt đầu thế kỷ mới, dưới ánh sáng các trào lưu lớn, các công ty này duyệt lại các dự án, đường hướng và chương trình hoạt động của họ.

Khi từ giã một thế kỷ có nhiều chinh phục lớn, nhưng cũng có những thảm trạng kinh hoàng, và trước thềm ngàn năm mới, cả chúng ta cũng nên làm một bản tổng kết và đề ra những dự phóng cho tương lai, dưới ánh sáng của Lời Chúa.

Chúng ta là những vị mục tử trong các Cơ quan Tòa Thánh, với bao nhiêu nhân sự và cộng tác được ủy thác cho chúng ta. Chúng ta thuộc về Ðoàn Tông Ðồ. Trong niềm hiệp thông với Ðức Thánh Cha và dưới quyền của Ngài, chúng ta được tham dự vào mối quan tâm thường nhật của Ngài đối với toàn thể các Giáo Hội (cf 2Cr 11,28). Làm sao lại không xin Chúa giúp chúng ta trong tinh thần hoán cải?

Ví dụ, chúng ta có trung thành trong việc thực thi đứng đắn ý Chúa được biểu lộ trong biến cố trung tâm của thời đại chúng ta ngày nay là Công đồng chung Vatican II hay không?

Ðể đặt mình trong sự thật trước mặt Chúa, không có gì hữu hiệu hơn là để cho chính Ngài soi sáng và thanh tẩy chúng ta trong tình thương vô biên của Ngài. Chính Ngài với Lời Sự Thật, là Chúa Phục Sinh, là người Ðầu Tiên và Cuối Cùng và là Ðấng Hằng Sống. Chính Ngài nói với Giáo Hội trong mọi thời đại qua Thánh Linh.

Sứ điệp Chúa Thánh Linh gởi các Giáo Ðoàn

Trong sách Khải Huyền, Chúa Kitô Phục Sinh phác họa bản tổng kết đời sống của 7 giáo đoàn ở Tiểu Á và nói với các vị mục tử của các giáo đoàn ấy. Qua những sứ điệp này, Ngài muốn thanh tẩy đời sống của các cộng đoàn. Chúng ta hãy tìm cách nhận thức sự quan tâm nồng nhiệt của Chúa Kitô, Hôn Phu của Hội Thánh, đối với sự thánh thiện của các vị mục tử và các tín hữu, và hãy để cho mình được canh tân bằng những lời của Ngài hầu có được sự hoán cải chân thành trong Năm Toàn Xá này!

Giáo đoàn Êphêxô: một giáo đoàn đã mất tình yêu ban đầu (Cf Kh 2,1-7). Chúa khiển trách giáo đoàn này vì không còn tình yêu nồng nàn như thuở ban đầu nữa, một tình yêu luôn tươi mát và quảng đại, nảy sinh từ Thánh Linh và làm cho Hội Thánh được trẻ trung (cf LG 4). "Vậy ngươi hãy nhớ xem ngươi sa ngã ở đâu, hãy hoán cải và thi hành các công việc ban đầu". Chúa nói với giáo đoàn ấy như thế và mạnh mẽ cảnh giác rằng: "Nếu ngươi không hồi tâm trở lại, Ta sẽ đến và cất chân đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó".

Giáo đoàn Pecgamô: một giáo đoàn dung thứ sự thờ thần tượng (cf Kh 2,12-17). Chúa hiểu rằng giáo đoàn này sống trong môi trường đặc biệt khó khăn ("nơi có Tòa Satan"). Ngài đánh giá cao sự trung thành của giáo đoàn. Nhưng Lời Chúa là "gươm sắc hai lưỡi" nên không thể dung thứ cho một số người trong cộng đoàn rơi vào tội thờ thần tượng: "Vì thế, ngươi hãy tỉnh thức. Nếu không Ta sẽ sớm đến nơi ngươi và chiến đấu chống lại chúng với gươm của miệng Ta".

Giáo đoàn Thyatira: một giáo đoàn đã chiều theo thái độ thỏa hiệp (cf Kh 2,18-29). Giáo đoàn này rất năng nổ hoạt động. Nhưng "Ðấng có đôi mắt lửa hồng" nhìn thấu sự khiết tịnh của tâm hồn. Ngài thấy rõ những thỏa hiệp trong phong hóa: "Các ngươi dung thứ Giêdaben, người đàn bà tự cho mình là nói nhân danh Thiên Chúa. Với lời rao giảng của mình, bà làm cho các tín hữu của Ta đi lệch đàng, lôi kéo họ phản bội Ta... Ta cho họ thời gian để thay đổi cuộc sống, nhưng họ không muốn từ bỏ sự bất trung... Chúa chỉ ban quyền bính trên các dân nước cho những người có đời sống thanh liêm vẹn toàn cho đến chết".

Giáo đoàn Xácđê: một giáo đoàn đang mê ngủ (Kh 3,14-22). "Mọi người tưởng các ngươi là một giáo đoàn sinh động, nhưng trong thực tế các ngươi đã chết. Các ngươi hãy tỉnh thức! Hãy củng cố đức tin của một số người còn sống, trước khi suy tàn hết!" Chúa Giêsu nhắn nhủ giáo đoàn này đừng dựa vào những vinh quang quá khứ: "Các ngươi hãy nhớ lại xem mình đã đón nhận lời Chúa như thế nào; hãy mang lời ấy ra thực hành; hãy thay đổi cuộc sống! Nếu các ngươi tiếp tục ngủ, Ta sẽ tới như kẻ trộm..."

Giáo đoàn Laođikia: một giáo đoàn nguội lạnh (cf Kh 3,14-22). Ở đây, chúng ta nghe thấy lời khiển trách càng mạnh mẽ hơn: "Ta biết tất cả về các ngươi. Ta biết rằng các ngươi không nóng không lạnh... các ngươi làm ta kinh tởm đến độ buồn nôn". Chúa từ chối sự tầm thường. Các Thánh nói rằng đây là trạng thái nguy hiểm nhất trong đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu muốn kéo chúng ta ra khỏi tình trạng ấy nên Ngài mời gọi hãy nghe Ngài, là Ðấng đang gõ cửa đời sống chúng ta. "Các ngươi nói: 'Chúng ta giàu có. Chúng ta đã tạo được gia sản. Chúng ta chẳng cần gì nữa' và các ngươi không nhận thấy rằng mình thất bại, bất hạnh, nghèo nàn, mù quáng và trần trụi... Vì thế, hãy thay đổi cuộc sống, và dấn thân với trọn sức lực của các ngươi".

Trong số 7 giáo đoàn, Chúa Kitô Phục Sinh khiển trách 5 giáo đoàn vì thiếu tình yêu nồng nhiệt, vì thỏa hiệp, vì thờ thần tượng, vì ngái ngủ và nguội lạnh. Chỉ có hai giáo đoàn không bị khiển trách là Ximiếcna và Philađenphia.

Giáo đoàn Ximiếcna: một giáo đoàn bị bách hại và nghèo túng (cf Kh 2,8-11). Chúa Phục Sinh khuyến khích giáo đoàn này trong lúc sầu khổ và thử thách: "Ta biết các ngươi bị bách hại và sống trong lầm than, nhưng trong thực tế các ngươi giàu có... Các ngươi đừng sợ những đau khổ đang chờ đợi các ngươi. Ma quỉ chẳng bao lâu sẽ ném một số trong các ngươi vào tù để thử thách các ngươi... hãy trung thành dù phải chịu chết". Như thế các ngươi được nhận lãnh triều thiên vinh quang.

Giáo đoàn Philađenphia: một giáo đoàn bé nhỏ nhưng trung thành (cf Kh 3,7-13). Nguyên tên của giáo đoàn này cũng là điều đầy ý nghĩa: Philađenphia, "tình huynh đệ" (Cf 1Pr 1,22; 2,17). Ðó là thành ngữ mà Tân Ước dùng để nói về tình yêu của các môn đệ đối với nhau. Chúa đã có một lời khích lệ dành cho Giáo Hội này: "Ta đã mở ra trước ngươi một cánh cửa mà không ai có thể đóng nổi". Ðây là một giáo đoàn bé nhỏ, nhưng được Thiên Chúa yêu thương: "Ta biết rằng ngươi không có nhiều sức mạnh, nhưng ngươi đã thi hành lời Ta và đã không phản bội Ta... vì thế, Ta sẽ bảo vệ ngươi".

Chúng ta hãy xét một vài yếu tố thường được nói đến trong các sứ điệp ấy:

- "Ta biết công việc của ngươi...", "Ta biết ngươi ở đâu...", "Ta biết nỗi sầu khổ của ngươi...". Chúa biết rõ về chúng ta. Khi thấu nhập vào đời sống chúng ta bằng cái nhìn như ngọn lửa cháy, Ngài mời gọi chúng ta hãy xét lại tương quan của chúng ta với Ngài là "Ðấng Ðầu Tiên và Cuối Cùng".

- Trong mỗi giáo đoàn, người công chính đều tìm được lý do để ca ngợi. Nhưng hầu như Chúa nói với tất cả các giáo đoàn: "Nhưng Ta phải khiển trách ngươi...". Ðó là những lời quyết liệt. Chúa Kitô yêu thương một cách hết sức nghiêm chỉnh nên không thể để cho các giáo đoàn nằm lỳ trong những yếu đuối của họ. Tiếng gọi hoán cải thật là liên lỷ, tha thiết, được nâng đỡ bằng tình yêu, tuy âm thầm, nhưng luôn sinh động.

- Mỗi sứ điệp đều kết thúc bằng những lời này: "Ai có tai thì hãy nghe điều Thánh Linh nói với các giáo đoàn". Con đường hoán cải của chúng ta đạt được tột đỉnh và được hoàn tất trong sự lắng nghe Thánh Linh. Chúng ta, là Giáo Hội của Ngài, phải hoàn toàn phó thác nơi Ngài. Chính Ngài sẽ ban ơn để chúng ta biết đáp trả hoàn toàn ơn gọi của mình và ban cho khả năng biết đọc ra được những dấu chỉ thời đại. Ðó chính là mục đích của Năm Thánh.

Tôi thiết nghĩ sứ điệp cuối cùng như lời tóm lược điều Chúa muốn nói với Hội Thánh của Ngài: hãy là một Giáo Hội trung thành với tình yêu, trung thành với lời Tin Mừng, với luật yêu thương huynh đệ! Như thế ngươi sẽ làm chứng tá về sự hiện diện của Chúa, ngươi sẽ tăng trưởng, sẽ sống, và sẽ chiến thắng.

Lạy Chúa, này đây chúng con đầy lòng khiêm cung trước mặt Chúa

Có một kinh nghiệm mà chúng ta thường đọc, đặc biệt trong những lúc hội họp đó là kinh Adsumus Domine, Cúi Xin Chúa Sáng Soi. Kinh này được coi là của Thánh Isiđôrô thành Siviglia (La Preghiera dell'Adsumus. Note storio-critiche, in D. Balboni, "Anecdote liturgica", I, Città del Vaticano, 1984, pp. 17-24).

Mỗi khi đọc kinh này, tôi cảm thấy bị thôi thúc phải sống chân thật trước mặt Chúa, Ðấng mà chúng ta thưa với Ngài: "Adsumus - này chúng con đây".

Tôi dùng kinh này như một kinh cầu để thanh tẩy và đặt mình trong sự khiêm tốn: chúng con ở trước mặt Chúa với gánh nặng của tội lỗi ("Peccati quidem immanitate detenti...").

Chúng ta cảm thấy được khích lệ, và giống như trong trò chơi xích đu, chúng ta có thể từ vực thẳm lầm than vọt lên đỉnh sự sống của Chúa: "Xin Chúa đến và ở giữa chúng con" (Veni ad nos et esto nobiscum).

Ðể tìm ra hướng đi, tìm được con đường ngay thẳng theo ý Chúa, chúng ta phó thác để cho Ngài dìu dắt: "Xin dạy chúng con biết việc phải làm, cách làm, và phải thi hành điều gì".

Ðâu là những tội lỗi và khiếm khuyết mà chúng ta cầu xin được giải thoát nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần?

Có lẽ đó là sự thiếu công chính trong việc làm của chúng ta, nếu chúng ta là những người làm "xáo trộn công chính" (pertubatores iustitiae).

Có lẽ đó là sự thiếu khách quan trong phán đoán và quyết định, thiếu nghiên cứu kỹ lưỡng các vấn đề, thiếu quan tâm tới sự thật, thiếu phân biệt chính xác: "Ước gì sự u mê dốt nát không đưa chúng con vào chỗ sa ngã".

Có thể là sự mỏng giòn của con người làm cho chúng ta trở nên yếu nhược, khi ngã theo những ân huệ nhận được, hoặc sợ hãi khúm núm trước cường quyền. Phán đoán của chúng ta bị điều kiện hóa vì thái độ thiên vị đến độ có nguy cơ bị mua chuộc. Tất cả những điều đó, chúng ta nói lên trong tâm tình khiêm tốn, dù những lời này làm cho chúng ta khó chịu: "Ðể ân huệ không làm cho phải quị lụy, việc nhận quà cáp hoặc nhân sự không làm ra hư hỏng..."

Chúng ta được mời gọi tự vấn xem chúng ta có luôn luôn say mê sự thật và chân thành tìm kiếm sự thật bằng mọi cách để không đi lệch đường ngay nẻo chính không ("ut in nullo deviemus a vero").

Với một ước muốn duy nhất: đó là trở thành những người giải thích và thi hành một cách hết sức trung thành thánh ý Chúa trong lời nói và hành động: "để các quyết định của chúng con không đi ngược lại với Chúa".

Càng là bạn hữu và là tôi tớ Chúa, chúng ta càng ý thức mình được chọn và được vinh dự phục vụ Chúa một cách đặc biệt trong Hội Thánh và cho thế giới, và đồng thời càng phải hăng say duy trì sự hiệp nhất: "Ðể chúng con được hiệp nhất trong Chúa ("ut simus in te unum"). Như thế chúng ta được Thiên Chúa lắng nghe, bởi vì cùng hiệp nhau nhân danh Chúa như lời Ngài đã hứa: "Trong danh Chúa, họ kết hiệp nhau một cách đặc biệt" (Cf Mt 18,20). Và chúng ta sống trước nhan Chúa, hướng về Ngài như những người con rất quí yêu, như Chúa Giêsu, và bằng một kinh nguyện đơn sơ, chúng ta xin Ngài soi sáng để biết được những gì phải nói và phải làm: ("Esto solus suggestor et effector iudiciorum nostrum...").

Với lòng tín thác vô biên luôn được ơn thánh Ngài gìn giữ trong tình hiệp thông thực sự với Chúa, chúng ta khiêm tốn nài xin ơn Ngài liên kết và linh hoạt trong chúng ta ("Iunge nos tibi efficaciter solius tuae gratiae dono").

Ðược kêu gọi xét mình để làm bản tổng kết vào cuối thế kỷ và đầu ngàn năm mới, kinh "Adsumus, Domine", nhắc nhở chúng ta về sự đổi mới liên lỷ trong khi làm việc cho Ðức Thánh Cha và cho sứ vụ Phêrô của Ngài.

Trong thư thứ nhất, Thánh Phêrô cũng khuyên chúng ta: "Anh em hãy luôn sẵn sàng trả lời cho những người hỏi anh em lý do tại sao anh em Hy Vọng, và hãy trả lời một cách tử tế và trân trọng cùng với lương tâm trong sạch" (1Pr 3,15-16). Nếu trong mọi lúc, chúng ta luôn hoàn toàn hướng về ơn gọi của mình, chúng ta có thể bước qua Cửa Thánh là Chúa Kitô hằng sống trong chúng ta và ở giữa chúng ta, với ước muốn sống như chính Chúa Giêsu đã sống vì Chúa Cha, và luôn được Thánh Linh thúc đẩy, để luôn luôn và trong mọi sự thi hành thánh ý Chúa Cha: "Ðể chúng con có thể làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự".

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!

Tôi muốn kết thúc bài suy niệm này với một lời và một kinh nguyện Hy Vọng.

Tôi đã đến Melbourne, ở Úc, để giảng một cuộc tĩnh tâm.

Tôi rất được an ủi khi đọc thấy trên tường lời Hy Vọng này: "Không có vị Thánh nào mà không có quá khứ, không có tội nhân nào mà không có tương lai..."

Trước mặt Chúa, Ðấng tập họp chúng ta đây trong danh Ngài, quá khứ của chúng ta hoàn toàn tùy thuộc lòng thương xót của Ngài, và tương lai của chúng ta ở trong niềm trung thành bất biến của Ngài.

Lời kinh Hy Vọng là điều Thánh Ambrôsiô gợi lên cho chúng ta. Thánh nhân là vị mục tử đã cầu nguyện với Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành với những lời này: "Vậy lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến, hãy tìm kiếm tôi tớ Chúa, tìm kiếm chiên lạc của Chúa.

Hỡi Mục Tử, xin tìm kiếm, như Giuse đã tìm những con chiên.

Chiên của Chúa còn lạc đường, bao lâu Chúa còn trì hoãn, còn dừng chân lại trên núi non. Xin Chúa hãy để lại 99 con chiên và lên đường tìm một con đang lạc lối.

Xin hãy đến và đừng mang theo chó. Hãy đến và đừng đem theo những người làm thuê thô lỗ. Hãy đến và đừng dẫn theo người chăn thuê không biết đi qua cửa chính. Hãy đến, xin đừng mang theo người trợ giúp hay người trung gian, vì từ lâu con vẫn đang chờ đợi một mình Chúa.

Con biết rằng Chúa sắp đến, nếu thực là con đã không quên giới lệnh của Chúa. Hãy đến, mà đừng mang gậy gộc, trái lại với tình yêu thương và thái độ từ nhân khoan thứ" (Dal Commento al Salmo 118, 22, 28: PL 15, 1599).

Lạy Chúa là vị Mục Tử Nhân Lành, xin hãy đến để hoán cải và đổi mới chúng con!

Giáo Hội không bao giờ chỉ được canh tân một lần cho tất cả, nhưng cần được đổi mới hằng ngày.

4. THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG THẾ GIAN DƯỜNG NÀO 

Thế giới ngày nay

"Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con một của Ngài, để ai tin nơi Người sẽ không phải chết nhưng được sống đời đời.

Thiên Chúa đã không sai Con Ngài đến trong thế gian để phán xét thế gian, nhưng để thế gian được cứu rỗi nhờ Người" (Ga 3,16-17).

Hai câu này của Tin Mừng Thánh Gioan vang dội tất cả sự cao cả và lầm than của con người như Pascal đã nói.

Trong Thông Ðiệp Redemptor Hominis, Chúa Cứu Thế, Ðức Gioan Phaolô II đã quả quyết rằng "con người (...) là lộ trình đầu tiên và cơ bản của Giáo Hội" (số 14). Và trong Thông Ðiệp Dives in Misericordia, Thiên Chúa Giàu Lòng Xót Thương, Ngài viết: "Trong Chúa Giêsu Kitô, mọi nẻo đường gặp gỡ con người mãi mãi được ủy thác cho Hội Thánh qua dòng thời gian biến đổi, và đồng thời cũng là cuộc hành trình gặp gỡ Chúa Cha và tình thương của Ngài" (số 1).

Công Ðồng Chung Vatican II, trong Hiến chế mục vụ "Vui Mừng và Hy Vọng" đã mô tả tình trạng con người trong thế giới ngày nay như sau: "một thế giới được Thiên Chúa yêu thương", và vì thế giới ấy, Chúa Giêsu đã trả một giá thật đắt: "Theo tình hình đang diễn ra, thế giới ngày nay vừa mạnh mẽ nhưng đồng thời lại vừa yếu đuối, có khả năng làm những điều tốt lành và xấu xa... Thế giới đang mở con đường hoặc tự do hoặc nô lệ, tiến bộ hoặc suy thoái, tình huynh đệ hoặc oán ghét" (GS 9).

Hội Thánh phải nghe tiếng kêu cứu của thế giới và đồng thời quan sát dưới ánh sáng Chân Lý đã đón nhận từ nơi Thiên Chúa để nhận diện những Hy Vọng và đe dọa, những lo lắng và những lý do gây lo âu. Nói tóm lại, Hội Thánh phải thấy rõ mặt phải cũng như mặt trái của thế giới ngày nay.

Tôi thiết nghĩ không ai có thể tổng hợp sâu sắc hơn cái nhìn này cho bằng Ðức Phaolô VI trong Chúc thư của Ngài:

"Nhắm mắt trên trái đất đau thương, bi thảm và tuyệt vời này, một lần nữa, tôi cầu xin lượng từ nhân Chúa đổ xuống trên trái đất này" (Chúc Thư của Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI, 30-6-1965, số 6 trong báo Osservatore Romano ngày 12.8.1978 trang 2).

Một trái đất tuyệt vời

Những lời đầu tiên của Hiến Chế mục Vụ vừa trưng dẫn gồm có 4 chữ: "Vui mừng và Hy Vọng, buồn thảm và lo âu" (Gaudium et Spes, luctus et angor).

Tôi xin bắt đầu từ những điểm sáng, điểm tích cực.

Sau hai cuộc thế chiến trong tiền bán thế kỷ XX vừa qua, với những đau khổ khôn tả, với hàng triệu nạn nhân nguyên trong Thế Chiến Thứ II, và những tàn phá chưa từng có, thế giới chúng ta trong nhiều năm trời hạ bán thế kỷ XX, đã chịu đựng cơn ác mộng chiến tranh lạnh giữa hai khối ý thức hệ đối nghịch nhau, với sự đe dọa liên tục của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Tại Âu Châu, với sự sụp đổ của các chế độ độc tài áp bức, chế độ mà, theo tài liệu của "Cuốn sách đen của chế độ cộng sản", đã làm cho 100 triệu người chết (1), thế giới đã thấy một viễn tượng mới về hòa bình.

Chúng ta có thể vui mừng ghi nhận những tiến bộ rất đáng kể:

- Tỷ lệ trẻ em chết sớm giảm bớt một nửa từ năm 1965;

- Hy vọng sống lâu gia tăng thêm 10 năm kể từ năm 1970;

- Tỷ lệ trẻ em cắp sách đến trường ở bậc tiểu và trung học tăng quá gấp đôi;

- Tỷ lệ người lớn biết chữ gia tăng từ gần 50% lên 70%;

- Lợi tức bình quân mỗi đầu người tăng gấp ba trong vòng 50 năm gần đây.

Bước qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng và bước vào Ngàn Năm thứ ba, nhân loại vui mừng nhận thấy có sự gia tăng ý thức về các quyền căn bản của con người và quyền tự quyết của các dân tộc, đề cao các giá trị bản sắc văn hóa, tôn trọng các nhóm dân thiểu số, cũng như ý thức về giá trị của dân chủ và thị trường tự do.

Các tôn giáo ý thức và quyết tâm thi hành vai trò của mình trong việc đối thoại, hòa giải, như một yếu tố căn bản của hòa bình và hiệp nhất cho thế giới.

Sự thăng tiến phụ nữ được hưởng ứng trong xã hội dân sự và trong Giáo Hội.

Trách nhiệm đối với thiên nhiên là một đề tài mới và chiếu dọi ánh sáng mới giúp ý thức hơn về hồng ân của Thiên Chúa.

Những tiến bộ lớn trong ngành thông tin, y khoa và khoa học là những lý do làm Hy Vọng về một cuộc sống sung túc hơn và đồng thời cũng là lý do khiến họ biết ơn Ðấng Tạo Hóa.

Người ta nhận thấy trong những bối cảnh đầy ý nghĩa, có một sự bừng tỉnh mạnh mẽ về chiều kích thiêng liêng, về đời sống nội tâm và sự chân thành. Càng ngày càng có nhiều người ao ước được Ðấng Tuyệt Ðối, và sự khao khát cầu nguyện cũng gia tăng.

Việc toàn cầu hóa, một cách nào đó cũng góp phần vào việc kiến tạo một tương lai thế giới hiệp nhất và liên đới hơn. Tất cả đều mong muốn có tình huynh đệ giữa con người với nhau.

Các phong trào mới trong Giáo Hội triển nở như một mùa xuân của Hội Thánh, với chứng tá vui tươi của họ trong niềm tin, cậy, mến.

Một trái đất đau thương

Nhân loại tiến vào Ngàn Năm Thứ Ba với tiềm năng lớn lao về hòa bình và tiến bộ làm cho chúng ta vui mừng và cảm thấy khích lệ. Nhưng công việc hằng ngày cũng giúp tôi nhận thấy rằng nhiều dân tộc ngày nay vẫn còn chịu đau khổ vì bị gạt ra ngoài lề và bị kỳ thị, nhân phẩm của họ không được tôn trọng. Vẫn còn có nhiều người, như ông "Ladarô" quanh bàn tiệc của người giàu, đang chịu đau khổ vì nghèo đói, bất an về sức khỏe và văn hóa.

Theo Ngân Hàng Thế Giới:

- 1 tỷ 300 triệu người đang sống dưới mức nghèo đói cùng cực.

- 840 triệu người bị đói, trong đó có 200 triệu trẻ em. Trong số này mỗi năm có 13 triệu người phải chết: tức là gần 36 ngàn người mỗi ngày, 1,500 người mỗi giờ, 25 người mỗi phút, và cứ 3 giây đồng hồ thì có một người chết đói.

- Vẫn còn nhiều "Ladarô" chờ đợi quanh bàn tiệc và họ phải sống trên đường phố, ăn những thức còn thừa trong đĩa của thực khách ở các tiệm ăn. Thật là những điều không thể tưởng tượng nổi.

- Khoảng 1 tỷ rưỡi người dân trên thế giới chỉ hy vọng sống dưới 60 tuổi và hơn 880 triệu người thiếu các dịch vụ y tế, 2 tỷ 600 triệu người không được hưởng những cơ cấu y tế căn bản.

- Trong khoảng thời gian từ 1990 đến 1997, số người bị vi trùng HIV/AIDS tăng từ gần 15 triệu lên hơn 33 triệu.

Ðức Giáo Hoàng, khi nói về những lo âu của thời đại chúng ta, quả quyết rằng "tất cả những gì diễn ra trong bối cảnh một sự hối hận vĩ đại do sự kiện bên cạnh những người và xã hội dư giả, sống trong thừa mứa, chạy theo chủ nghĩa tiêu thụ và hưởng thụ, không thiếu trong cùng gia đình nhân loại những cá nhân và nhóm xã hội đang phải chịu đói khổ. Cũng không thiếu những trẻ em chết đói dưới mắt bất lực của các bà mẹ..." (2).

Nạn nghèo sinh ra những tai họa khác: như nạn mãi dâm - nguyên tại Tây Âu có nửa triệu phụ nữ làm nghề này - hoặc nạn buôn bán ma túy nơi các trẻ em; nạn bạo lực và phạm pháp. Tình trạng thiếu việc làm là nguyên nhân khiến cho nhiều người trẻ tuyệt vọng tự tử.

Trong những năm qua, đặc biệt là trong bối cảnh Năm Ðại Toàn Xá, ÐTC đã kêu gọi xóa nợ hoặc ít là giảm cái vòng lẩn quẩn tàn hại của nợ nần mà các nước đang trên đường phát triển gặp phải. Trường hợp Phi Châu thật là tỏ tường. Mặc dù trong khoảng thời gian từ 1980 đến 1996, Phi châu ở miền nam sa mạc Sahara đã trả gấp đôi số tiền họ mắc nợ nước ngoài, nhưng ngày nay, họ đang mắc nợ gấp 3 lần so với tình trạng cách đây 16 năm.

Một khuôn mặt đặc biệt của nghèo đói là tình trạng bất an về văn hóa. Năm 1997, hơn 850 triệu người lớn không biết chữ, và hơn 260 triệu trẻ em không được cắp sách đến trường ở trình độ tiểu học và trung học.

Thêm vào đó việc buôn bán bất hợp pháp ma túy và võ khí, cũng như sự lưu thông tiền bạc bẩn thỉu là những nguyên nhân gây nên chiến tranh. Trong khoảng thời gian từ 1989 đến 1998, đã có 81 cuộc chiến tranh: 3 cuộc chiến giữa các nước, và 78 cuộc nội chiến. Hàng ngàn thiếu niên, từ tuổi 14, đã bị động viên và xung vào chiến tranh. Nhiều trẻ em bị thiệt mạng, nhiều em khác bị tàn phế, và những em khác trở nên quen thuộc với oán thù, bạo lực và tàn sát...

Tôi nghĩ đến núi Cây Dầu, trước thành Giêrusalem. Tại nơi "Chúa khóc", trước thành ấy. Nếu ngày nay, Chúa Giêsu đi qua thế giới "đau khổ và bi thảm này" có lẽ Ngài cũng sẽ khóc và thốt lên rằng: "Thầy cảm thấy thương đám dân này". Tại nhiều nơi, Ngài vẫn còn bị đóng đinh và kêu lên "Ta khát".

Một trái đất bi thảm

Mặc dù có những tiến bộ đầy khích lệ được ghi nhận, trong thời đại hoàn vũ hóa này, hố chia cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng sâu rộng hơn.

Thật là một sự kiện khó tin: tài sản của ba người giàu nhất thế giới bằng tổng sản lượng của 48 nước nghèo nhất. 1 tỷ 300 trệu người sống với chưa đầy một mỹ kim mỗi ngày.

Cũng thật là ngỡ ngàng khi nghe biết rằng tại các nước công nghệ, có 88% tổng số những người dùng Internet, trong khi 2 tỷ người khác không có điện.

Một vùng đen tối khác bao trùm toàn thể lãnh vực các giá trị luân lý của con người, nơi nội tâm và trong sự chủ quan của họ. Chúng ta có thể nhắc đến thái độ rất nguy hiểm là tương đối hóa luân lý, một thứ "bệnh ung thư chủ quan" (3), một sự sa đọa của nhân loại. Thái độ này càng làm tăng thêm trào lưu loại trừ Kitô giáo, chủ thuyết vô thần thực hành, sự thu hẹp đức tin vào lãnh vực riêng tư. Trong các thế kỷ trước đây, Hội Thánh đã chịu đau khổ nhiều về cuộc khủng hoảng đức tin mạnh mẽ, còn trong thời đại chúng ta, cuộc khủng hoảng xoay quanh vấn đề luân lý: chân lý về con người bị lu mờ. Và gia đình bị băng hoại, trật tự thiên nhiên bị đảo lộn, người ta lạm dụng tự do và không tôn trọng sự sống...

Sự thành thị hóa cũng tạo nên những vấn đề mới về mục vụ. Năm 2015 tới đây, cứ 5 người Pháp, thì có một người sống ở vùng Paris. Tệ hơn nữa là nạn di dân từ vùng này qua vùng khác vì thiếu công ăn việc làm. Hiện tượng ngày càng nhiều người già làm vỡ các hệ thống hưu bổng tại nhiều quốc gia.

Trong 15 năm tới đây, tại nhiều nước Âu Châu, giai cấp thợ thuyền cũng như nông dân sẽ bị giảm sút rất nhiều. Ví dụ, tại Pháp, năm 1984 có 8 triệu 200 ngàn công nhân, ngày nay chỉ còn lại 6 triệu rưỡi, và vào năm 2015 tới đây, chỉ còn 4 triệu người mà thôi. Các giai cấp xã hội cũng dần dần chấm dứt. Xã hội ngày mai sẽ gồm hơn 75% nhân viên các cán bộ trung cấp.

Các hệ thống viễn liên điện toán thay đổi xã hội chúng ta một cách sâu rộng. Cùng với cuộc cách mạng đó, mọi điều thiện và điều ác đi thẳng vào nội tâm của mỗi gia đình. Vì thế, cả những nước độc tài cũng không thể dựng nên những bức tường, những hàng rào hoặc cấm đoán. Tất cả những thay đổi đó có ảnh hưởng mạnh mẽ tới Dân Chúa. Chúng ta nghĩ tới một xác tín mạnh mẽ của Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII: nếu Giáo Hội không đi gặp nhân loại, thì nhân loại sẽ không gặp Giáo Hội.

Chúng tôi loan báo một Tin Mừng: Ðấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta

Ðứng trước những bóng đen tối tăm đó, vang dội lên trong tâm trí chúng ta những lời Chúa Giêsu đọc trong sách tiên tri Isaia, tại Hội đường Nadarét: "Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi; vì thế, Ngài đã xức dầu thánh hiến tôi và sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo, loan báo sự giải thoát cho các tù nhân và người mù được thấy; người áp bức được tự do, và rao giảng năm hồng ân của Chúa" (Lc 4,18-19).

Năm Ðại Toàn Xá mang lại cho chúng ta một Hy Vọng về sự canh tân mạnh mẽ "trái đất đau thương, bi thảm, tuyệt vời này" nhờ ơn của một lễ Hiện Xuống Mới. Nếu không có sự hoán cải nội tâm, phần lớn nhân loại có nguy cơ tiến từ kinh nghiệm bị bóc lột tới loại trừ, và từ loại trừ tới hủy diệt.

Viễn tượng của Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI: "Một trái đất đau thương, bi thảm và tuyệt diệu" vẫn không rời tôi. Tôi mơ ước một niềm Hy Vọng lớn:

Tôi mơ ước một Hội Thánh là Cửa Thánh, mở rộng, bao gồm mọi người, đầy lòng từ bi và cảm thông mọi cơ cực, đau khổ của nhân loại, và tìm cách an ủi họ.

Tôi mơ ước một Hội Thánh là Lời Chúa, phổ biến Sách Tin Mừng ra mọi phương trời, trong cử chỉ loan báo và tuân phục Lời Chúa, như một lời hứa của Giao Ước vĩnh cửu.

Tôi mơ ước một Hội Thánh là Bánh, Thánh Thể, muốn trở thành hồng ân và để cho mình được mọi người ăn, hầu cho thế giới được sự sống dồi dào.

Tôi mơ ước một Hội Thánh say mê sự hiệp nhất như Chúa Giêsu mong muốn (cf Ga 17), như Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, người mở Cửa Thánh và cầu nguyện trên ngưỡng cửa rồi cùng tiến lên với một Ðức Tổng Giám Mục Chính Thống Giáo và Ðức Tổng Giám Mục Anh Giáo của giáo phận Cantebury, và nhiều vị đại diện khác.

Tôi mơ ước một Hội Thánh trên đường lữ hành, Dân Thiên Chúa theo sau Ðức Giáo Hoàng mang Thánh Giá, tiến vào Ðền Thờ Chúa, cầu nguyện và ca hát, hướng về Chúa Kitô Phục Sinh, là niềm Hy Vọng duy nhất và hướng về Mẹ Maria và tất cả các Thánh.

Và tôi ngưỡng mộ các anh em tôi thuộc các cơ quan khác nhau của Trung Ương Tòa Thánh, trong những giờ rảnh không phải làm việc tại văn phòng, đến giúp các cộng đoàn giáo xứ trong công việc mục vụ.

Tôi mơ ước một Hội Thánh mang trong tâm hồn lửa của Thánh Linh, và ở đâu có Thánh Linh, ở đó có tự do, và có đối thoại chân thành với thế giới, nhất là với giới trẻ, với những người nghèo, người sống ngoài lề, có sự nhận diện các dấu chỉ thời đại. Giáo huấn xã hội của Hội Thánh, dụng cụ rao giảng Tin Mừng (4), hướng dẫn chúng ta trong việc nhận định những thay đổi trong xã hội ngày nay.

Tôi mơ ước một Hội Thánh là Chứng Nhân của Hy Vọng và Tình Thương, bằng những hành động cụ thể, như khi chúng ta thấy Ðức Giáo Hoàng tiếp nhận tất cả mọi người: Chính thống, Anh giáo, Calvin, Luther... trong ơn thánh của Chúa Giêsu Kitô, tình thương của Chúa Cha và sự hiệp thông của Thánh Thần được sống trong kinh nguyện và trong sự khiêm tốn.

Vui mừng và Hy Vọng dường nào!

Lạy Mẹ Maria chí thánh, là sự sống, sự dịu ngọt và là Hy Vọng của chúng con, xin cầu cho chúng con!

5. CHỈ CÓ MỘT SỰ CẦN THIẾT DUY NHẤT 

Chọn Thiên Chúa chứ không phải những việc của Thiên Chúa

Trong Năm Thánh này, khi khởi sự cuộc hành hương tại các nơi ghi dấu lịch sử cứu độ chúng ta, Ðức Gioan Phaolô II vì không thể tới miền Ur xứ Canđê, đã cử hành lễ tưởng niệm Tổ Phụ Abraham tại Rôma.

Ðáp lại lời mời gọi, Abraham chọn Thiên Chúa, vâng lời không chút do dự và đã rời quê hương mà không biết mình đi đâu, hướng về vùng đất Thiên Chúa đã hứa cho ông.

Với sự chọn lựa quyết liệt ấy, Tổ Phụ Abraham đã khởi sự một kinh nghiệm ngoại thường.

Ngài đã "sống như một người ngoại quốc trên quê hương mà Thiên Chúa đã hứa ban cho ông".

Ngài tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ giữ lời hứa ban cho Ngài một người con khi đã 100 tuổi.

Tổ phụ Abraham đã "tín thác dâng hiến người con duy nhất của mình" làm hy tế, vì "nghĩ rằng Thiên Chúa cũng có thể cho người chết sống lại..." (cf He 11,9-19).

Và chính vì thế, Ngài đã trở thành cha của đông đảo dân chúng, đông như sao trên trời và như cát dọc theo bờ biển.

Dựa vào một mình Thiên Chúa, chọn lựa Thiên Chúa: đó chính là kinh nghiệm lớn lao của các Tổ Phụ, các Ngôn Sứ, các tín hữu Kitô tiên khởi, được gợi lại trong chương 11 của Thư gửi Tín Hữu Do Thái trong đó có 18 lần dùng thành ngữ "nhờ đức tin" (per fede) và một lần thành ngữ "với đức tin" (con fede).

Tuy nhiên thái độ không hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa, tìm nương tựa và an ninh nơi khác vẫn luôn là cám dỗ dân Chúa thường gặp. Ðó cũng là kinh nghiệm từng trải của những nhân vật, cả những người nổi tiếng như Môisen, Ðavít, Salômôn.

Mẹ Maria là người tín hữu tuyệt hảo. Và cùng với các Ngài có vô số các chứng nhân, đông đảo những thí dụ lớn không thiếu trong lịch sử Giáo Hội hoàn vũ, và trong những thăng trầm của đời sống bản thân chúng ta.

Nền tảng đời sống Kitô hữu

Trong 9 năm biệt giam cơ cực, có lúc tôi bị giam trong một xà lim không có cửa sổ. Có khi đèn điện bật sáng từ ngày này qua ngày nọ. Có lúc lại ở trong bóng tối từ tuần này qua tuần khác. Tôi cảm thấy bị ngộp vì nóng bức và hơi ẩm. Tôi sắp bị điên lên. Lúc bấy giờ tôi là một giám mục trẻ, với 8 năm kinh nghiệm mục vụ. Tôi không thể ngủ nổi. Tôi bị dằn vặt bởi ý nghĩ phải bỏ giáo phận, phải bỏ dở những công việc của Chúa. Tôi cảm thấy một sự phẩn uất nổi lên trong tôi.

Một đêm kia, từ trong thâm tâm có một tiếng nói với tôi: "Tại sao con day dứt như thế? Con phải phân biệt giữa Thiên Chúa và các công việc của Chúa. Tất cả những gì ngươi đã làm và muốn tiếp tục làm, như các cuộc viếng thăm mục vụ, đào tạo chủng sinh, tu sĩ nam nữ, giáo dân, giới trẻ, xây trường học, các cư xá sinh viên, cứ điểm truyền giáo... đều là việc rất tốt và đúng là công việc của Chúa nhưng không phải là chính Thiên Chúa! Nếu Chúa muốn con rời bỏ tất cả những việc đó. Hãy bỏ ngay, và hãy tín thác nơi Ngài! Thiên Chúa sẽ giao việc của con cho người khác có khả năng hơn con. Con phải chọn Chúa, chứ không phải những công việc của Chúa!

Ánh sáng ấy đã mang lại cho tôi một niềm an bình mới mẻ làm thay đổi hoàn toàn cách suy tư của tôi và đã giúp tôi vượt thắng những khoảnh khắc hầu như không thể chịu nổi về phương diện thể lý. Từ đó, một sự an lành tràn ngập tâm hồn tôi và lưu lại trong tôi suốt 13 năm tù đày. Tôi cảm thấy sự yếu đuối của con người mình, nhưng tôi luôn nhắc lại điều đã quyết định khi phải đối diện với nghịch cảnh. Nhờ thế tôi không bao giờ mất sự bình an.

Chọn Chúa, chứ không phải chọn những công việc của Chúa. Ðó chính là nền tảng đời sống Kitô trong mọi thời đại. Và đồng thời đó cũng là câu trả lời đích thực nhất cho thế giới ngày nay. Ðó cũng là con đường để thực hiện những dự định của Chúa Cha đối với chúng ta, đối với Giáo Hội và nhân loại ngày nay.

Luôn thưa lại tiếng "Xin Vâng"

Mỗi ngày tôi càng hiểu rõ hơn những lời Kinh Thánh: "Như trời xa cách đất thế nào,... tư tưởng của Ta cũng xa cách những tư tưởng của các ngươi như vậy" (Is 55,9).

Tôi hiểu được rằng cuộc sống của tôi là một chuỗi dài các chọn lựa giữa Thiên Chúa và các việc của Chúa. Một sự chọn lựa luôn mới mẻ, và trở thành một sự hoán cải.

Mẹ Maria đã chọn Chúa mà quên đi những dự tín riêng tư của mình mặc dầu không hiểu rõ mầu nhiệm đang xảy ra trong thân xác và vận mệnh của mình. Từ lúc ấy, cuộc đời của Mẹ là một lời "Xin Vâng" luôn được đổi mới từ hang đá Bêlem, tới cuộc lưu đày ở Ai Cập, cho đến xưởng mộc làng Nadarét và cuối cùng tới đồi Canvê. Cùng một chọn lựa luôn được tái thực hiện: "Thiên Chúa chứ không phải những công việc của Thiên Chúa". Và chính nhờ đó mà Mẹ Maria thấy tất cả những lời hứa được thể hiện. Mẹ thấy Chúa Con phục sinh, người Con mà Mẹ đã ẵm lấy thân xác nhợt nhạt; Mẹ thấy nhóm môn đệ tụ tập lại và mang Tin Mừng của Chúa Con cho mọi dân nước. Mẹ được mọi thế hệ tuyên xưng là người có phúc và là "Mẹ Thiên Chúa". Mẹ đã đứng dưới chân Thánh Giá và đã thấy Con Thiên Chúa trở thành một người như chúng ta, một con người bình thương.

Thờ phượng cách chân thật

"Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết tâm hồn và hết sức ngươi" (Ds 6,5; cf Mt 22,37).

Trong các sách Lêvi và Ðệ Nhị Luật, Thiên Chúa đã thiết định tỉ mỉ các lễ nghi, phẩm phục tư tế, và tất cả những gì cần cho việc tư tế chính chức, theo thời điểm và lễ trọng khác nhau.

Sách các Vua kể lại cho chúng ta những cố gắng của vua Salômôn để kiến thiết Ðền Thờ, theo kế hoạch Thiên Chúa đã định, với sự đóng góp của các dân tộc lân bang. Và thế là nảy sinh trung tâm tôn giáo và quốc gia của Israel.

Vậy mà, qua các Ngôn Sứ, Thiên Chúa cho biết các hy tế và lễ toàn thiêu chẳng có giá trị gì, nếu không có hy tế nội tâm là tâm hồn thống hối khiêm cung. Ðó là một sự chọn lựa Thiên Chúa một cách chân thực và rõ ràng. Trời và đất đều thuộc về Chúa, đất là "bệ" chân Ngài. Thiên Chúa không cần Ðền Thờ (cf Is 66,1-2).

Can đảm sống trung thực

Sự chọn lựa Thiên Chúa như thế trong cuộc sống có hệ luận là phải quyết tâm từ bỏ việc thờ thần tượng. Vì thế, cụ già Êlêadarô thà chết chứ không để kẻ khác nghi ngờ sự liên kết mật thiết của mình với Thiên Chúa (cf 2 Mcb 6,18-31).

Ngày nay, cũng như thời Cựu Ước và Tân Ước, ai chọn Thiên Chúa thì phải chấp nhận thiệt thòi trong lãnh vực kinh tế, quyền hành hoặc những lợi lộc khác... Chúa Giêsu đã nói rõ điều đó: "Vì Thầy".

Cũng vì sự chọn lựa đó, có những người không thể vào đại học, không được công ăn việc làm, không có nhà ở... Bao thế hệ Kitô hữu tại nhiều quốc gia đã can đảm chấp nhận những hy sinh như thế.

Thư gửi Tín Hữu Do Thái nhắn nhủ chúng ta: "Anh em hãy nghĩ lại những gì anh em đã cảm nghiệm trong những ngày đầu tiên, ngay sau khi nhận lãnh ánh sáng của Thiên Chúa. Bấy giờ anh em đã phải chịu nhiều đau khổ, phải chiến đấu cam go. Nhiều khi anh em bị lăng mạ và ngược đãi trước mặt mọi người; nhiều lần khác, anh em phải bảo vệ những người bị xúc phạm như thế. Anh em đã từng chịu nổi sầu khổ của các tù nhân, và khi bị người ta tước đoạt của cải, anh em đã vui lòng chấp nhận những mất mát đó, vì biết mình sẽ sở hữu những của cải tốt đẹp hơn, và không ai có thể tước đoạt được" (Dt 10,32-34).

Cách chọn Chúa trong đời sống mục tử

Khi còn ở trong tù, xét theo một nghĩa nào đó, việc chọn lựa một mình Thiên Chúa đối với tôi dễ dàng hơn mặc dầu không thiếu những cám dỗ chiều theo sự thỏa hiệp. Thật vậy, khi không còn những an ninh trước đó nữa, tôi cảm thấy cần phải tập trung tất cả cuộc sống mình vào một điều "cần thiết duy nhất" (cf Lc 10,42) trong số những gì được xem là hoàn toàn quan trọng.

Giờ đây được tự do với lắm công việc và những công tác nhiều khi nặng nề, tôi thật dễ dàng trở nên Marta hơn là Maria.

Thực vậy, không có Mục Tử nào nghĩ rằng mình không chọn Chúa. Tất cả chúng ta đều xả thân tận tụy với các công việc của Chúa. Nhưng tôi cảm thấy mình luôn cần phải xét lại mình cách thành thật trước mặt Chúa. Trong cuộc sống mục vụ của tôi, bao nhiêu phần dành cho Chúa và bao nhiêu phần dành cho các công việc của Ngài (mà nhiều khi đó chỉ là công việc của tôi)? Khi từ khước một nhiệm vụ hoặc mong ước một nhiệm vụ khác, tôi có thực sự là vô vị lợi hay không?

Tác giả Thư gửi Tín Hữu Do Thái khuyên rằng: "Anh chị em cần sự cương quyết" (Dt 10,36). Cương quyết để thực sự tự do. Ai tự do thì không sợ gì cả. Ðó là trường hợp của Môisen: "Môisen khi lớn lên, không muốn được coi là con trai của công chúa vua Ai Cập. Ông muốn được đối xử giống như dân Chúa, hơn là sống thoải mái trong một thời gian ngắn, nhưng trong tội lỗi" (Dt 11,24-25).

Mãnh lực thu hút của chứng tá

Trong một cuộc thuyết trình tại đại học Salford ở Anh quốc, mới đây một chủng sinh đã hỏi tôi: "Thưa cha, con nói nhân danh các chủng sinh. Xin cha để lại cho chúng con một lời khuyên". Tôi đáp: "Các thầy đặt cho tôi câu hỏi này thật bất ngờ, nhưng tôi không muốn để các thầy phải thất vọng. Trong cuộc sống khá dài và sóng gió của tôi, tôi đã trải qua kinh nghiệm này. Nếu tôi trung thành bước theo Chúa Kitô, từng bước một, thì chính Chúa Giêsu sẽ dẫn tôi đến mục đích. Các thầy sẽ bước đi trên những con đường không lường trước được, nhiều khi quanh co, tăm tối, thê thảm, nhưng các thầy hãy tin tưởng. Các thầy ở cùng Chúa Giêsu! Hãy phó thác cho Ngài mọi ưu tư lo lắng của các thầy. Ðừng quan tâm lo lắng thu hút dân chúng. Hãy chắc chắn rằng: nếu các thầy theo Chúa Giêsu, thì dân chúng cũng sẽ theo các thầy!"

Trong Công Vụ Tử Ðạo chúng ta đọc thấy trình thuật này:

Khi thánh Ciprianô bị bắt, quan tổng trấn tra hỏi Ngài trước đám đông:
- Người có phải là Thascius Cyprianus không?
- Thưa chính tôi đây.
- Các Thánh hoàng đế đã truyền cho ngươi phải tế thần.
- Tôi không làm.
- Ngươi hãy nghĩ lại đi!
- Ðối với một điều rõ rệt như thế thì không cần phải suy nghĩ gì nữa.
- Thascius Cyprianus phải bị hành quyết bằng gươm.
- Tạ ơn Chúa.
Sự chọn lựa này của Thánh Ciprianô giống như một sức thu hút mãnh liệt khiến cho các tín hữu đồng loạt theo Ngài đến nơi tử đạo (Cf Acta Prosunsularia S. Cypriani 3-4: PL 3, 1561-1563).

Và tôi nghĩ tới việc hành hương Năm Thánh.

Chúng ta tiến bước mỗi ngày, mặc dù gặp những thử thách, rủi ro, bởi chúng ta chỉ có một mục đích duy nhất, một niềm Hy Vọng duy nhất.

Chỉ có một sự cần thiết duy nhất: chọn Thiên Chúa.

Nhận xét